“Tất tần tật” những gì cần biết về các mẫu siêu xe của McLaren

Thông tin và hình ảnh của Cars Evolution phải nói là vừa đơn giản lại vừa bổ ích, giúp chúng ta dễ dàng nắm được những gì quan trọng nhất của một mẫu siêu xe McLaren.

McLaren là một trong những thương hiệu nổi tiếng nhất trong làng xe đua thế giới, nhưng các mẫu xe đi đường của họ thì chưa có được nhiều thành tựu như thế. Sau đây, chúng ta sẽ cùng nhìn lại 48 năm lịch sử các mẫu xe McLaren đi đường, điểm qua tất cả các cái tên từ M6GT cho tới Senna, kèm theo một số thông tin thú vị từ kênh YouTube Cars Evolution:

McLaren M6GT 1970 có công suất 370 mã lực, nặng 800 kg, và đạt tốc độ tối đa 265 km/h. Nó sử dụng một động cơ V8 của Chevrolet, là phiên bản xe đi đường đến từ chính ông Bruce McLaren, nhưng chỉ có 3 chiếc thử nghiệm được chế tạo bởi ông Bruce qua đời năm 1970.

McLaren M6GT 1970 có công suất 370 mã lực, nặng 800 kg, và đạt tốc độ tối đa 265 km/h. Nó sử dụng một động cơ V8 của Chevrolet, là phiên bản xe đi đường đến từ chính ông Bruce McLaren, nhưng chỉ có 3 chiếc thử nghiệm được chế tạo bởi ông Bruce qua đời năm 1970.

McLaren F1 1993 có công suất 627 mã lực, nặng 1.139 kg, và đạt tốc độ tối đa 386 km/h. Nó từng là mẫu xe đi đường nhanh nhất thế giới, và có thiết kế vị trị ngồi lái ở giữ xe. Chỉ có 106 chiếc được chế tạo trong lịch sử.

McLaren F1 1993 có công suất 627 mã lực, nặng 1.139 kg, và đạt tốc độ tối đa 386 km/h. Nó từng là mẫu xe đi đường nhanh nhất thế giới, và có thiết kế vị trị ngồi lái ở giữ xe. Chỉ có 106 chiếc được chế tạo trong lịch sử.

McLaren F1 LM 1995 có công suất 680 mã lực, nặng 1.061 kg, và đạt tốc độ tối đa 362 km/h. Nó sử dùng động cơ V12 giống mẫu xe đua F1 GTR, chỉ chế tạo đúng 5 chiếc được chế tạo. Thiết kế xe nhẹ nhanh và nhanh hơn, đồng thời cũng có dáng thấp hơn và cứng hơn mẫu F1.

McLaren F1 LM 1995 có công suất 680 mã lực, nặng 1.061 kg, và đạt tốc độ tối đa 362 km/h. Nó sử dùng động cơ V12 giống mẫu xe đua F1 GTR, chỉ chế tạo đúng 5 chiếc được chế tạo. Thiết kế xe nhẹ nhanh và nhanh hơn, đồng thời cũng có dáng thấp hơn và cứng hơn mẫu F1.

McLaren F1 GT 1997 có công suất 627 mã lực, nặng 1.119 kg, và đạt tốc độ tối đa 331 km/h. Nó có một thiết kế thân vỏ dài để gia tăng lực ép xuống mặt đường, có vô lăng xe đua và vẫn giữ hàng ghế hành khách. Chỉ có 2 chiếc F1 GT được chế tạo.

McLaren F1 GT 1997 có công suất 627 mã lực, nặng 1.119 kg, và đạt tốc độ tối đa 331 km/h. Nó có một thiết kế thân vỏ dài để gia tăng lực ép xuống mặt đường, có vô lăng xe đua và vẫn giữ hàng ghế hành khách. Chỉ có 2 chiếc F1 GT được chế tạo.

McLaren MP4-12C Coupe có công suất 616 mã lực, nặng 1.473 kg, và đạt tốc độ tối đa 333 km/h. Nó là mẫu xe đi đường được McLaren chế tạo hoàn toàn từ đầu đến cuối bao gồm cả động cơ V8, có tua máy tối đa lên tới 8.500 vòng/phút, và có trang bị hệ thống treo thủy lực điều khiển điện tử.

McLaren MP4-12C Coupe có công suất 616 mã lực, nặng 1.473 kg, và đạt tốc độ tối đa 333 km/h. Nó là mẫu xe đi đường được McLaren chế tạo hoàn toàn từ đầu đến cuối bao gồm cả động cơ V8, có tua máy tối đa lên tới 8.500 vòng/phút, và có trang bị hệ thống treo thủy lực điều khiển điện tử.

McLaren F1 2014 có công suất 903 mã lực, nặng 1.496 km, và đạt tốc độ tối đa 349 km/h. Nó là người kế nhiệm mẫu F1 1993, là một trong những mẫu siêu xe hybrid đầu tiên trên thế giới, có khả năng gia tốc từ 0-96 km/h chỉ trong 2,6 giây, đi 1/4 dặm trong 9,8 giây. Nó có giá sàn là 1.150.000 USD mỗi chiếc và chỉ có 375 chiếc được chế tạo.

McLaren F1 2014 có công suất 903 mã lực, nặng 1.496 km, và đạt tốc độ tối đa 349 km/h. Nó là người kế nhiệm mẫu F1 1993, là một trong những mẫu siêu xe hybrid đầu tiên trên thế giới, có khả năng gia tốc từ 0-96 km/h chỉ trong 2,6 giây, đi 1/4 dặm trong 9,8 giây. Nó có giá sàn là 1.150.000 USD mỗi chiếc và chỉ có 375 chiếc được chế tạo.

McLaren 650S Coupe 2015 có công suất 641 mã lực, nặng 1.427 kg, và đạt tốc độ tối đa 333 km/h. Nó được dựa trên mẫu MP4-12C với 25% phụ tùng mới, và có công suất mạnh hơn 25 mã lực so với người tiền nhiệm.

McLaren 650S Coupe 2015 có công suất 641 mã lực, nặng 1.427 kg, và đạt tốc độ tối đa 333 km/h. Nó được dựa trên mẫu MP4-12C với 25% phụ tùng mới, và có công suất mạnh hơn 25 mã lực so với người tiền nhiệm.

McLaren 625C Coupe 2016 có công suất 616 mã lực, nặng 1.402 kg, và đạt tốc độ tối đa 333 km/h. Nó được chế tạo riêng cho thị trường châu Á và là một phiên bản yếu hơn của 650S. Nó được trang bị hệ thống treo mềm hơn, và các thanh giảm xóc mới.

McLaren 625C Coupe 2016 có công suất 616 mã lực, nặng 1.402 kg, và đạt tốc độ tối đa 333 km/h. Nó được chế tạo riêng cho thị trường châu Á và là một phiên bản yếu hơn của 650S. Nó được trang bị hệ thống treo mềm hơn, và các thanh giảm xóc mới.

McLaren 675LT Coupe 2016 có công suất 666 mã lực, nặng 1.327 kg, và đạt tốc độ tối đa 329 km/h. Nó là phiên bản tập trung đi đường đua của 650S, là chiếc xe nhanh nhất trên đường đua Top Gear. Nó có trang bị một hệ thống ống xả làm bằng titan, bánh xe nhẹ cân hơn.

McLaren 675LT Coupe 2016 có công suất 666 mã lực, nặng 1.327 kg, và đạt tốc độ tối đa 329 km/h. Nó là phiên bản tập trung đi đường đua của 650S, là chiếc xe nhanh nhất trên đường đua Top Gear. Nó có trang bị một hệ thống ống xả làm bằng titan, bánh xe nhẹ cân hơn.

McLaren 570S Coupe 2016 có công suất 562 mã lực, nặng 1.451 kg, và đạt tốc độ tối đa 328 km/h.  Nó là mẫu xe nhẹ cân nhất trong phân khúc, và có tỷ lệ công suất/trọng lượng cao nhất. Nó được trang bi một hệ thống phanh sứ các-bon, và có một bộ vi sai mở.

McLaren 570S Coupe 2016 có công suất 562 mã lực, nặng 1.451 kg, và đạt tốc độ tối đa 328 km/h.  Nó là mẫu xe nhẹ cân nhất trong phân khúc, và có tỷ lệ công suất/trọng lượng cao nhất. Nó được trang bi một hệ thống phanh sứ các-bon, và có một bộ vi sai mở.

McLaren 540C Coupe 2016 có công suất 533 mã lực, nặng 1.437 kg, và có công suất tối đa 320 km/h. Nó là phiên bản yếu hơn của 570S dành cho các thị trường bên ngoài Mỹ, và sử dụng bộ phanh thép tiêu chuẩn thay vì sứ các-bon.

McLaren 540C Coupe 2016 có công suất 533 mã lực, nặng 1.437 kg, và có công suất tối đa 320 km/h. Nó là phiên bản yếu hơn của 570S dành cho các thị trường bên ngoài Mỹ, và sử dụng bộ phanh thép tiêu chuẩn thay vì sứ các-bon.

McLaren 570GT Coupe 2017 có công suất 562 mã lực, nặng 1.514 kg, và đạt tốc độ tối đa 328 km/h. Nó có thiết kế trần nhìn xuyên thấu, cửa kính mở ở bên để gia tăng thêm chỗ chứa hành lý, cộng thêm âm thanh êm tai để phù hợp đi đường hơn.

McLaren 570GT Coupe 2017 có công suất 562 mã lực, nặng 1.514 kg, và đạt tốc độ tối đa 328 km/h. Nó có thiết kế trần nhìn xuyên thấu, cửa kính mở ở bên để gia tăng thêm chỗ chứa hành lý, cộng thêm âm thanh êm tai để phù hợp đi đường hơn.

McLaren 720S Coupe 2018 có công suất 710 mã lực, nặng 1.436 kg, và đạt tốc độ tối đa 341 km/h. Nó được trang bị một động cơ V8 lớn hơn những người tiền nhiệm, có thể gia tốc 0-96 km/h trong 2.5 giây, hoàn thành 1/4 dặm trong 10.1 giây và có chế độ drift đa dạng hấp dẫn.

McLaren 720S Coupe 2018 có công suất 710 mã lực, nặng 1.436 kg, và đạt tốc độ tối đa 341 km/h. Nó được trang bị một động cơ V8 lớn hơn những người tiền nhiệm, có thể gia tốc 0-96 km/h trong 2.5 giây, hoàn thành 1/4 dặm trong 10.1 giây và có chế độ drift đa dạng hấp dẫn.

McLaren Senna 2018 có công suất 789 mã lực, nặng 1.197 kg, và đạt tốc độ tối đa 339 km/h. Nó là một mẫu xe thương mại sản xuất giới hạn với chỉ 500 chiếc được chế tạo, có thể tạo ra 800 kg lực ép xuống mặt đường, và có tấm ốp cửa được tráng men.

McLaren Senna 2018 có công suất 789 mã lực, nặng 1.197 kg, và đạt tốc độ tối đa 339 km/h. Nó là một mẫu xe thương mại sản xuất giới hạn với chỉ 500 chiếc được chế tạo, có thể tạo ra 800 kg lực ép xuống mặt đường, và có tấm ốp cửa được tráng men.

Khoang động cơ của McLaren F1 được lót 16 g vàng, bởi vàng có khả năng tản nhiệt tốt nhất, và động cơ V12 của xe có thể trở nên rất nóng. Các lá vàng được lắp đặt để bảo vệ sợi các-bon của xe.

Khoang động cơ của McLaren F1 được lót 16 g vàng, bởi vàng có khả năng tản nhiệt tốt nhất, và động cơ V12 của xe có thể trở nên rất nóng. Các lá vàng được lắp đặt để bảo vệ sợi các-bon của xe.

Bởi McLaren muốn tái tạo trải nghiệm lái một trong những xe đua F1 của họ một cách gần nhất có thể, vậy nên ghế tài xế ở giữa xe là một ghế đặt cố định.

Bởi McLaren muốn tái tạo trải nghiệm lái một trong những xe đua F1 của họ một cách gần nhất có thể, vậy nên ghế tài xế ở giữa xe là một ghế đặt cố định.

Mp4-12C sử dụng khung sắt-xi sợi các-bon được đổ khuôn một miếng đầu tiên trên thế giới. Mọi chiếc xe đi đường hoặc xe đua được McLaren chế tạo kể từ 1981 đều sử dụng một khung sắt-xi sợi các-bon.

Mp4-12c sử dụng khung sắt-xi sợi các-bon được đổ khuôn một miếng đầu tiên trên thế giới. Mọi chiếc xe đi đường hoặc xe đua được McLaren chế tạo kể từ 1981 đều sử dụng một khung sắt-xi sợi các-bon.

Toàn bộ tấm ốp thân phía sau phải được tháo ra để tiếp cận động cơ của mẫu P1. Sau khi tháo bỏ phần đuôi xe,  thợ máy phải mặc một đồ cách điện, đi găng tay chống sốc, và có một máy khử rung tim trên tay trước khi chạm vào động cơ. Nếu không, họ sẽ bị giật bởi một nguồn điện 600 V từ năng lượng dự trữ của hệ thống hybrid.

Toàn bộ tấm ốp thân phía sau phải được tháo ra để tiếp cận động cơ của mẫu P1. Sau khi tháo bỏ phần đuôi xe,  thợ máy phải mặc một đồ cách điện, đi găng tay chống sốc, và có một máy khử rung tim trên tay trước khi chạm vào động cơ. Nếu không, họ sẽ bị giật bởi một nguồn điện 600 V từ năng lượng dự trữ của hệ thống hybrid.

Cánh gió đặt trên đuôi xe có tác dụng giúp xe tạo lực ép xuống mặt đường tốt hơn. Nó nặng chỉ 4.9 kg, nhưng đóng góp tới 500 kg lực ép xuống ở tốc độ 249 km/h, và tự động thay đổi góc tối đa 25 độ để điều chỉnh lực ép xuống.

Cánh gió đặt trên đuôi xe có tác dụng giúp xe tạo lực ép xuống mặt đường tốt hơn. Nó nặng chỉ 4.9 kg, nhưng đóng góp tới 500 kg lực ép xuống ở tốc độ 249 km/h, và tự động thay đổi góc tối đa 25 độ để điều chỉnh lực ép xuống.

>>> Đánh giá nhanh McLaren 600LT: “Cơn ác mộng” mới của Ferrari

Bạn cũng có thể thích